I. Giới thiệu chung
http://nhatbao24h.blogspot.com/ Đây là cây lấy quả nổi tiếng và đang trở thành cây trồng
được quốc tế hoá như cà phê, ca cao, cao su… Macca nguyên sản ở bang Queensland
nước úc , người châu Âu đầu tiên di cư đến úc gọi cây này là Giẻ Queensland, về
sau được nhập về trồng ở Haoai tạo ra hàng xuất khẩu quy mô lớn, trên thương
trường sản phẩm này đã được mang tên mới là quả khô Ha-oai.
Sản phẩm nhân Macca Vita hiện có tại thị trường Việt Nam |
Để nông dân dễ tiếp thu, chúng tôi đề nghị đặt tên cho loài cây này là cây Macca, cách gọi này bám sát tên khoa học, do đó ít gây khó khăn cho giao dịch quốc tế, lại gần với cách gọi tên cây ở miền núi phía bắc nước ta. Ha-oai trồng bằng cây ghép với các dòng đã tuyển chọn, cây cho quả ở tuổi 3, bắt đầu sai quả ở tuổi 10, đến tuổi 12 sản lượng quả lại tăng gấp đôi so với tuổi 10. Thời kỳ sai quả của cây có thể kéo dài tới tuổi 60 và tuổi thọ cây có thể đến 100 năm. Nếu trồng bằng hạt thì tuổi 5 hoặc 6 mới cho quả và năng suất sẽ thấp hơn.
Trồng thử bằng cây hạt ở Ba Vì (Hà Tây) đã cho quả sớm hơn một chút, khoảng 4 đến 5 tuổi. Quả hình trái đào, hoặc tròn như hòn bi, khi chín vỏ quả chuyển từ xanh sang nâu, vỏ khô tự nứt, bên trong chứa một hạt, hiếm khi có 2-3 hạt. Nếu quả chỉ chứa 1 hạt thì hạt tròn như hạt nhãn. Vỏ quả cứng và láng bóng như hạt sở, đường kính hạt khoảng 2-3 cm, trọng lượng tươi khoảng 8-9 gram. Thành phần hữu ích là nhân hạt mầu sữa trắng ngả vàng, chiếm gần 1/3 trọng lượng hạt.
Theo kết quả phân tích của Wenkham và Miller năm 1965, thành phần dinh dưỡng trong nhân hạt Macca như sau:
- Chất béo 78,2%
- Các hợp chất đường 10%
- Các hợp chất đạm(protein) 9,2%
- Hàm lượng nước 1,5-2,5 % (nhân đã được làm khô theo yêu cầu bảo quản lâu dài)
- Kali 0,37%
- Phôt-pho 0,17%
- Ma-nhê 0,12%
Ngoài ra trong mỗi kg nhân hạt Macca còn chứa Can-xi 360mgr, Lưu huỳnh 66 mgr, Sắt dễ tiêu 18 mgr, Kẽm 14 mgr, đồng 3,3 mgr, và một số loại Vitamin như Vitamin pp 16 mg, Vitamin B1 2,2 mg, Vitamin B2 2,2 mg; các nghiên cứu sau này còn cho biết thêm: trong nhân Macca còn chứa một lượng Vitamin E rất lớn: 6,4 – 18 g/kg nhân. Nếu so sánh với hàm lượng chất béo sau khi rang của lạc nhân là 44,8%, hạt điều 47%, hạnh nhân 51%, hạt hạch đào 63% thì hàm lượng dầu béo 78% trong nhân Macca rõ ràng là cao hơn hẳn.
Vườn Macca ở Úc |
Điều đặc biệt là hàm lượng acid béo không no trong dầu Macca
lên tới 84% chỉ đứng sau dầu Sở (97%) đây là thứ chất béo mà thế giới hiện đại
rất coi trọng vì ít dẫn tới nguy cơ tích tụ colesteron trong cơ thể người và rất
phù hợp với nhu cầu làm dung môi trong mỹ phẩm. Nhân Macca không những béo ngậy,
với 9% protein 10% hợp chất đường, nhân Macca còn có vị ngọt và rất bùi và
thoang thoảng mùi thơm của bơ sữa bò rất hấp dẫn.
Nhân Macca ròn mà không cứng như hạt điều hay nhân lạc, dùng
ăn sống, luộc rang hoặc xào nấu với đồ mặn đều rất ngon, độn vào kem cốc, kẹo
Sô cô-la, bánh ga-tô và nhiều loại đồ ngọt khác đều làm cho các đồ ăn này tăng
hẳn giá trị. Chúng tôi cho rằng hoàn toàn có thể dùng nhân Macca để thổi xôi, nấu
chè, làm nhân bánh dẻo, bánh nướng và rất nhiều món ăn cổ truyền dân tộc khác của
Việt Nam, tạo thêm sức hấp dẫn cho các món văn hoá ẩm thúc truyền thống của ta.
Trên thế giới, Macca đã được đưa lên bàn ăn của các gia đình giầu có hoặc yến
tiệc sang trọng.
Quả Macca |
Ngoài nhân là sản phẩm chính, vỏ quả Macca chứa 14% ta-nin,
8-10% protein, sau khi chiết xuất ta-nin bằng nước nóng, vỏ quả thường được
nghiền làm thức ăn gia súc. Vỏ hạt có ít giá trị hơn, tại các xưởng chế biến
thường dùng vỏ hạt làm nhiên liệu, hoặc nghiền làm vật liệu hữu cơ độn bầu ươm
cây, độn đất chậu cảnh. Do hương vị nhân và giá cả Macca rất hấp dẫn nên hàng
chục nước đã đua nhau phát triển Macca trong mấy chục năm qua, nhưng người ta dự
báo rằng còn lâu cung mới đuổi kịp cầu, giá cả Macca trên thị trường thế giới vẫn
không ngừng tăng và là hàng nông sản đắt giá nhất trên thị trường thế giới hiện
nay.
- Năm 1960, giá thu mua hạt Macca ở Ha-oai là 0,395 USD/kg
- Năm 1980 – 1,540 USD/kg
- Năm 1986 – 1,860 USD/kg
Tại Australia giá thu mua hạt Macca năm 1985 là 1,9 AUD/kg,
năm 1996 là 3,0 AUD/kg (tỷ giá thời kỳ đó là 1 AUD= 0,6-0,7 USD) Trọng lượng
nhân bằng 1/3 trọng lượng hạt, phải nhân 3 để có trị số quy đổi thành giá mỗi
kg nhân. Đến năm 2000 giá mua bán nhân Macca trên thị trường thế giới đã lên tới
12 – 15 USD/Kg. Giá bán lẻ trên thị trường nội địa Trung Quốc năm 2000 là 200 –
220 tệ/kg tương đương 24 – 27 USD/kg
Theo thống kê năm 1997, tổng diện tích cây Macca trên toàn
thế giới đạt 46.000 Ha, sản lượng nhân đạt 61.000 tấn, phân bố chủ yếu tại 7 nước
sau đây:
- Australia 9.020 Ha sản lượng 26.000 tấn
- Mỹ 8.215 Ha sản lượng 24.500 tấn
- Bra-xin 6.300 Ha 1.000 tấn
- Kê-nia 6.050 Ha 4.400 tấn
- Côt sta-rica 6.000 Ha 3.100 tấn
- Nam Phi 4.500 Ha 3.920 tấn
- Gua tê mala 3.200 Ha 2.300 tấn
Đứng đầu diện tích và sản lượng vẫn là úc và Mỹ, 5 nước sau
sản lượng chưa cao do mới trồng hoặc khí hậu không thích hợp. Một số nước khác
cũng đã bắt đầu trồng thử như Mê-xi cô, Vênêduyê-la, Dimbabuê , Tanzania ,
Eti-ô-pia , Mali , Niu-zêlan.
Tại Trung Quốc, cây Macca đã có mặt ở vườn thực vật Đài loan
từ đầu thế kỷ 20, nhưng việc trồng đại trà mới thực hiện trong khoảng 20 năm gần
đây. Trung Quốc đã nhập hàng chục dòng vô tính cao sản về khảo nghiệm và nhân bằng
phương pháp ghép truyền thống, đến nay đã trồng được hơn 2000 Ha, chủ yếu tại
phía nam giáp với Việt nam, Lào và Miến điện và có triển vọng đạt sản lượng
1.500 đến 2.500 tấn trong vài năm tới.
Cùng với úc, Ha-oai (Mỹ) đứng hàng đầu thế giới về sản lượng
nhưng mới chỉ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch tới quần đảo này, còn dư một phần
chuyển về bán tại thị trường nội địa Mỹ. Nhân Macca của úc trước đây chủ yếu được
xuất vào thị trường Mỹ và Canada, nay Châu Âu và châu á đang trở thành thị trường
tiêu thụ lớn hơn, giá cả quốc tế vài năm gần đây giao động trong khoảng 12 – 15
USD/Kg nhân.
Các dự báo thị trường đều cho rằng giá nhân Macca sẽ còn
tăng mạnh trong tương lai. Giả định rằng cây Macca sẽ được gây trồng mạnh ở Việt
Nam với mức đầu tư thấp hơn nhiều so với cà phê, thậm chí bằng hoặc hơi thấp
hơn vải thiều, khoảng 15- 20 triệu đồng / Ha đầu tư ban đầu và 1,5 đến 2 triệu
đồng để chăm bón cho các năm về sau, thì với khí hậu miền bắc Việt Nam, từ 10
tuổi trở đi chí ít cũng thu hoạch được 3 tấn hạt (1 tấn nhân)/ha. Đến lúc đó
giá thu mua Macca cho người trồng nếu chỉ ở mức 5 USD/Kg nhân, thì trên một Ha
người nông dân nghèo vẫn có thể thu nhập 5.000 USD/Ha/năm.( tương đương 75 triệu
đồng).
Vì vậy, cây Macca xứng đáng là sự lựa chọn cây trồng cho xoá
đói giảm nghèo. Nhưng nỗi kinh hoàng sau trận suy sụp giá cà phê đòi hỏi phải
có phân tích kỹ lưỡng và dự báo nghiêm túc trước khi hạ quyết tâm cho lựa chọn
này. Sau đây là những điều đã có thể thấy rõ:
1. Khi Việt nam gia nhập thị trường Cà phê thế giới thì diện
tích và sản lượng cà phê đã ở số triệu, cân bằng cung cầu về cơ bản đã được xác
lập.
Việt Nam bước vào cuộc đua quá muộn và trong thời gian cực ngắn khoảng 15
năm đã tạo nên đột phá lớn, đưa diện tích tăng thêm 0,5 triệu Ha, và trở thành
quốc gia có năng suất sinh học và năng suất đồng ruộng đứng đầu thế giới. Sự đột
phá này đã phá vỡ cân bằng cung cầu của thế giới, giá cà phê suy sụp, không
riêng Việt nam mà tất cả các nước có xuất khẩu cà phê đều chịu thiệt thòi.
Vườn cây Macca ở Việt Nam |
Tuy nhiên nếu gan lì chờ đợi, thì không phải là Việt Nam mà
là các nước có giá lao động cao hơn, năng suất thấp hơn sẽ phải giảm diện tích
và Việt Nam vẫn có thể không thua trong cuộc đua này. Tình hình đặt ra với cây Macca
hoàn toàn khác hẳn. Diện tích và sản lượng Macca hiện nay mới ở mức vạn, tính hấp
dẫn và đặc điểm sử dụng nhân Macca cho phép nâng diện tích và sản lượng lên gấp
bội cây cà phê hay gấp hàng trăm lần diện tích và sản lượng Macca hiện nay mới
đủ làm bão hoà thị trường.
Tuy chậm chân mất vài chục năm nhưng về cơ bản vẫn có thể
coi như Việt Nam bước vào cuộc đua từ điểm xuất phát, sẽ không phải là kẻ đến
sau gây đảo lộn thị trường như trường hợp cây cà phê, mà sẽ là tham gia từ đầu
quá trình hình thành cung cầu.
Như sẽ phân tích ở phần sau, biên độ sinh thái cây Macca khá
rộng, có thể trồng làm cây mẫu ở vườn thực vật nhiều nơi trên thế giới, nhưng
yêu cầu chế độ khí hậu cho phân hoá chồi hoa, ngậm nụ thụ phấn và giai đoạn
tích luỹ dầu trong hạt để đạt năng suất cao lại tương đối đặc biệt, hay nói
cách khác là để cây sống thì có thể trồng ở nhiều nơi,
nhưng để cây có quả hạt thì lại rất ít nơi trồng được.
Việt Nam có nhiều tiểu vùng khí hậu với diện tích lớn đáp ứng
được yêu cầu này mà các nước khác trong cuộc đua không có. Nếu quyết tâm khai
thác được thành tựu chọn giống và kinh nghiệm kỹ thuật của úc, Mỹ, Trung Quốc
và các nước khác thì ưu thế về tài nguyên khí hậu và con người sẽ cho phép Việt
Nam tạo được bước đột phá thứ hai sau cây cà phê và Việt Nam có thể trở thành
quốc gia hàng đầu về năng suất và có thể cả về diện tích Macca trên thế giới
trong tương lai khoảng mấy chục năm tới.. Nếu sớm thực hiện được điều này chúng
ta sẽ làm nản lòng các đối thủ cạnh tranh và thời gian chờ đợi nước khác giảm
diện tích sản lượng như trường hợp cà phê sẽ không xẩy ra.
2. Nhu cầu về nhân Macca trên thị trường thế giới sẽ lớn hơn
cà phê rất nhiều.
Cách dùng cà phê khá nghèo nàn, chủ yếu là làm đồ uống, một
phần nhỏ pha vào rượu và kẹo bánh; nhưng ngay cả với người nghiện cà phê thì
nhu cầu hàng ngày cũng không thể quá nhiều. Trong khi đó thì đối tượng sử dụng Macca
lại rất rộng lớn bao gồm mọi tuổi tác, giới tính, sắc tộc, truyền thống ẩm thực,
sức khỏe….
Với nhân Macca, tình hình hoàn toàn không giống Cà phê, thậm
chí cũng không giống với Ca cao. Các đặc điểm ròn, bùi, thơm, ngậy hấp dẫn mọi
lứa tuổi. Cách ăn và chế biến rất phong phú từ ăn sống hoặc trộn trong sà lát,
sào, nấu, làm nhân bánh, kem, mứt… cho phép Macca vượt qua mọi ranh giới sắc tộc,tôn
giáo, truyền thống ẩm thực để đến với mọi người trên thế giới. Vì là đồ ăn nên
lượng tiêu dùng hàng ngày của mỗi người lớn hơn Cà phê, Ca cao rất nhiều.
Hàm lượng acid béo không no rất cao, Macca sẽ là sự lựa chọn
cho nỗi lo thời đại là bệnh tim mạch và làm dung môi trong ngành sản xuất mỹ phẩm
– 1 ngành sản xuất đang phát triển với tốc độ rất cao do lợi nhuận siêu ngạch.
Vì những lý do trên, người viết không ngần ngại đưa ra dự báo rằng nhu cầu nhân
Macca trên thị trường thế giới sẽ không thấp hơn 10 lần so với Cà phê.
3. Việt Nam (chủ yếu là phía bắc và tuyến giáp ranh giữa
đông và tây Trường Sơn) có thể là có nhiều ưu thế trong việc tìm nơi trồng
thích hợp và đạt sản lượng cao cho cây Macca. Mỹ, úc và nhiều nước đã có nhiều
công trình nghiên cứu về cây Macca.
Sau đây là những tổng kết và so sánh chủ yếu.
Nguyên sản Macca là vùng á nhiệt đới ẩm tại duyên hải phía
đông Queensland . Loài Macca vỏ hạt láng (Macadamia integrifolia) phân bố từ
25-28 0 vĩ tuyến nam, loài Macca vỏ hạt nhám (M. tetraphylla) phân bố xa hơn xuống
phía nam tới vùng bắc Niu-Sao-wên 28-29 0 vĩ tuyến nam.
Khi dẫn giống sang Hawaii 20-21 0 vĩ tuyến bắc thì sản lượng
nhân của giống Macca vỏ láng (M. integrifolia) đã cao hơn ở vùng nguyên sản khoảng
1/3. Xét về tính chống chịu, nghiên cứu của các nước đã ghi nhận Macca có thể
chịu lạnh tới – 4 0 C đối với cây con và – 6 0 C đối với cây trưởng thành và có
thể chịu nóng tới trên 38-40 0 C. Vì vậy từ xích đạo đến vĩ tuyến 34 0 nếu chế
độ mưa ẩm tốt, cây Macca đều có thể mọc nhưng không hẳn là nơi nào cũng sinh
trưởng tốt và cho sản lượng cao. Thí dụ dòng Keauhou mang mã số 246 do Hawai
tuyển chọn dưới 10 0 C hoàn toàn ngừng sinh trưởng, kích thước và sinh khối
tăng mạnh nhất ở nhiệt độ 15-30 0 C, trên 30 0 C lá non mất màu xanh, khô đọt,
gốc đâm cành thành chùm.
Hầu hết các giống Macca đều ngừng quang hợp ở 38 0 C. Ra hoa
kết quả là vấn đề then chốt quyết định sản lượng, các nước đã tập trung nghiên
cứu rất nhiều. Trước hết là sự hình thành chồi hoa, ở bắc bán cầu sự phân hoá để
hình thành chồi hoa diễn ra trong tháng 10 và nở hoa vào cuối tháng 2 đến đầu
tháng 4.
Thí nghiệm trong khí hậu nhân tạo cho thấy chồi hoa có thể
hình thành trong các chế độ nhiệt 12, 15, 18, 21 0 C. Tốt nhất là 18 0 C , nhiệt
độ ban đêm tháng 10 tháng 11 thấp hơn 12 và cao hơn 21 0 C đều không thể hình
thành chồi hoa. Vì lẽ đêm không đủ lạnh, các vùng lãnh thổ trong đới xích đạo từ
8-10 0 C nam vĩ đến 8-10 0 C bắc vĩ chỉ có thể chọn vùng núi có cao trình
600-1000m để trồng Macca.
Sau khi chồi hoa được hình thành, cần có thêm 60 ngày mới có
thể thấy được nụ hoa bằng mắt thường và hoa nở từ cuối tháng 2 kéo dài tới đầu
tháng 4. Nụ hoa có thể chịu đựng sương giá ngắn hạn 0-2 0 C trong 5-7 ngày, Đợt
rét hiếm có vào trước tết âm lịch mùa xuân năm 1999 ở bắc Việt Nam và nam Trung
Quốc đã cho thấy rõ tại Quảng Tây nhiệt độ tối thấp –5 0 C kéo dài 6 – 7 ngày
chưa gây tổn thất rõ ràng với nụ hoa nhưng lạnh sâu hơn và dài hơn sẽ làm nụ
hoa thui chột. Kinh nghiệm hơn 20 năm trồng Macca ở miền nam Trung quốc đã cho
nhận xét là càng áp sát biên giới phía nam thì sản lượng càng cao.
Nếu trồng Mắcca ở bắc Việt Nam thì triển vọng có thể khá hơn
nam Trung Quốc. Mùa hoa nở và sau hoa nở (tháng 3,4) gặp nắng hạn sẽ gây rụng
hoa nghiêm trọng. Cây Macca ra rất nhiều hoa, mỗi bông đuôi sóc có từ 100-300
hoa, nhưng tỷ lệ đậu quả lại chỉ đạt 0,1 – 0,3%. Khí hậu không thuận lợi có thể
hoàn toàn không đậu quả.
Theo qui luật chung về khí tượng khí hậu học toàn cầu thì từ
vĩ độ 8-10 0 đến 25-30 0 là vùng nhiệt đới và á nhiệt đới mưa mùa, đây là vùng
phân bố của rừng nhiệt đới mưa mùa (rừng khộp) rồi đến thảo nguyên nhiệt đới và
sa mạc. Toàn bộ địa đới này đều có mùa xuân và đầu hè rất khô và nóng. Lý do
trên làm cho tất cả các vùng lãnh thổ trên vành đai này không phù hợp với các
loại cây có nhu cầu sinh thái gần giống như cây Trà Mi, cây Sở, cây Vải thiều,
và 1 số giống Nhãn…
Các nhà tự nhiên học Trung Quốc thường hay nói tới một đặc ân
của tạo hoá là lẽ ra các khối không khí lạnh cực địa phải di chuyển theo hướng
tây nam rồi rẽ ngang sang hướng tây và do đó từ lưu vực Trường Giang xuống phía
nam phải là vùng sa mạc hoặc sa van nhiệt đới; nhưng nhờ vùng cao nguyên Pamia,
Hy-ma-lay-a nối tiếp cao nguyên Vân nam Quý châu kéo dài xuống dải Trường sơn
mà không khí lạnh cực địa bị cưỡng bức chuyển hướng đông nam và đem lại mùa
đông đủ lạnh và ẩm ướt cho đông nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam.
Từ đèo Hải vân đến các vùng phía bắc Việt Nam cũng được hưởng
đặc ân này (điều khác duy nhất là sau khi vào vịnh Bắc bộ, do không bị núi cao
làm lệch hướng, các khối không khí này lại chuyển hướng Tây nam theo quy luật
chung của hành tinh và tạo nên gió mùa đông bắc ở Việt nam). Vì thế đã làm cho
cây Vải , cây Sở có thể ra hoa kết quả tốt ở bắc Việt Nam, còn đối với Macca
thì do mùa đông ít lạnh hơn, mùa xuân (các tháng 3,4) đủ ẩm ướt, sẽ có thể ra
hoa và đậu quả khá hơn nam Trung Quốc.
Tại bắc bán cầu , quả Macca chín vào tháng 9 tới giữa tháng
11; 3 tháng trước đó là giai đoạn tích luỹ dầu cho hạt quan trọng nhất, đòi hỏi
khí hậu ẩm và nóng nhưng không quá 38 độ C. Khí hậu bắc Việt nam về cơ bản đáp ứng
được yêu cầu này, trong khi đó thì miền nam Trung quốc không được như vậy (lưu
vực Trường giang từ tháng 7 đến trung tuần tháng 8 thường gặp những kỳ nóng dài
ngày từ 39 đến 41 độ C và vì vậy cũng không phù hợp với yêu cầu sinh thái của
Mác-ca). Bão biển cấp 7-8 trở lên gây rụng quả nghiêm trọng, ở bán đảo Lôi Châu
và đảo Hải Nam dù Mác-ca sinh trưởng và ra hoa kết quả tốt nhưng với tần suất
bão 1-2 lần mỗi năm đã làm nhiều người phải từ bỏ ý định gây trồng. Gió mùa tây
nam khô nóng (ta quen gọi là gió Lào) nếu gặp đất trồng khô hạn cũng gây rụng
quả rất nhiều.
Tổng hợp những phân tích trên có thể nhận thấy: tại Bắc bộ,
trừ Ninh Bình và phần phía đông quốc lộ 1 có thể hay có bão, phần còn lại bao gồm
toàn bộ đồng bằng, trung du và miền núi phía Bắc với cao trình dưới 1000m đều
có thế hội tụ đủ các điều kiện khí hậu phù hợp yêu cầu đạt năng suất cao của
cây Macca: ít bão, ít gió lào, tháng 10 mát mẻ, tháng 4-5 ẩm ướt, tháng
7-8-9-10 nóng ẩm mà không quá gay gắt-đó là những yếu tố khí hậu cần thiết đảm
bảo cho Macca đạt năng suất cao.
II. Về đất đai:
Macca ưa đất thịt nhẹ đến trung bình, thời han úng ngập
không quá 10 ngày, đất ẩm đều quanh năm, tầng đất sâu trên 1m hơi chua, nếu
giàu hữu cơ thì đỡ phải bón nhiều phân. Macca không ưa đất kiềm, đất phèn mặn,
đất đá vôi, đất mắc ga lít, đất đá ong hoá hoặc thoái hoá nghiêm trọng… Như vậy
Bắc bộ có triển vọng sẽ có diện tích rất rộng lớn để trồng cây Mắcca.
Vườn Macca ở Hawaii |
Ngoài ra, miền núi Thanh Hoá, Nghệ An tần suất bão không cao
nếu mất 1 vụ mà trúng 2 vụ thì vẫn có thể gây trồng Macca. Vùng núi cao giáp
ranh giữa Tây và Đông Trường Sơn, nơi được đón mưa Tây Trường Sơn rất sớm đồng
thời lại được hưởng mưa muộn của Đông Trường Sơn như Khe Xanh, An Khê, vùng
giáp ranh giữa Bảo Lộc và Tánh Linh … cũng có thể là vùng phù hợp với phát triển
của cây Macca. Tất cả những phân tích trên cho phép đi đến dự báo là miền núi
phía bắc Việt Nam vừa có thể có nhiều đất trồng được cây Macca, vừa có thể tạo
nên những đỉnh cao về năng suất, chúng ta có thể tính đến chuyện phát triển Macca
thành một ngành sản xuất hàng hoá có quy mô tương đối lớn, diện tích có triển vọng
phát triển cây Mắc- ca có thể đạt tới cả triệu Ha.
Để có căn cứ lựa chọn, xin dịch vài thông tin tham khảo
trích dẫn từ tài liệu “Hưỡng dẫn trồng Macadamia” của úc xuất bản năm 1995
(GrowingMacadamias in Australia, NSW Agriculture Publishing House). Tài liệu
này cho biết đầu tư trồng Macca năm đầu 10.000 đô la úc/ Ha tương đương 80 triệu
VNĐ (không bao gồm giá mua đất hoặc thuê đất). Tiếp đó mỗi năm phải chi phí
2.000 đô úc – tương đương 16 triệu VNĐ cho việc chăm sóc. Nếu làm tốt thì năm
thú 12, sản lượng có thể đạt 4,5 tấn hạt/Ha, với giá năm 1994 2,80 đô úc/kg (hạt
chứa 33% nhân, độ ẩm 10%).
Như vậy thu hoạch trên mỗi Ha là : 4.500 Kg x 2,80 đô =
12,600 đô úc (Tương đương 110 triệu đồng Việt nam / Ha). Mức đầu tư ở úc là
tương đối cao vì : giá lao động rất cao và toàn dùng máy móc, nhiều nơi ở vùng
nguyên sản tại úc lượng mưa không cao và phân bố không đều, chi phí cho bơm tưới
cũng rất cao. Nhưng ở ta thì khác, có thể phần lớn dùng thủ công và có thể chọn
nhiều vùng không cần bơm tưới hoặc chỉ bơm tưới 1 lần vào đầu mùa hoa và 1 lần
vào mùa quả non. Vì vậy có thể mức đầu tư cho trồng Macca ở ta sẽ ít hơn nhiều
so với ở úc. Tác giả ước tính chỉ ngang đầu tư cho trồng Vải thiều thì Macca
cũng có thể đảm bảo thu hoạch khá, nhưng sau khi có thu hoạch, đầu tư phân bón
nên đạt mức tiên tiến thế giới để duy trì sản lượng cao và ổn định. Sau đây là
phác thảo mức đầu tư để gây trồng và chăm sóc cho 1 Ha Mắc –ca cao sản:
Mật độ: 307 cây/Ha (5 m x 6.5 m để tiến tới hình thành ruộng
bậc thang).
Cây giống: 307 cây x 20.000 VNĐ = 3.140.000VNĐ (đơn giá nhập
sẽ không ít hơn 2 USD một cây ghép), sau này tự sản xuất có triển vọng sẽ thấp
hơn 20.000VNĐ/cây.
Đào hố: 307 cây x 10.000 VNĐ = 3,07 triệu VNĐ (kích thước hố
1 m x 1 m x 1 m ).
Phân bón: 307 x 6000 VNĐ = 1.842.000 VNĐ (gồm 3000VNĐ cho
phân chuồng và phân khoáng, 3000 VNĐ cho 50 dm 3 than bùn đã chế biến).
Công trồng: 307 x 2000 VNĐ = 0.614 triệu (bao gồm lấp hố
đúng yêu cầu kỹ thuật).
Chăm sóc: 5 năm x 2.000.000 VNĐ = 10.000.000 VNĐ (bao gồm
làm sạch cỏ và từng bước hình thành ruộng bậc thang).
Cộng:
Tổng đầu tư cho 1 Ha là 18.666.000 VNĐ/Ha. Trồng Macca
với cây ghép hoặc nhân hom sẽ cho quả vào tuổi 3 có thu nhập từ tuổi 5, cao sản
từ tuổi 10 – 12 trở đi. Sau này sẽ không thể chi phí ít hơn 2.000.000 VNĐ hàng
năm cho làm cỏ, bón thúc, tưới nước, thu nhặt và hong phơi hạt. Giai đoạn này
có thể lấy thu bù chi.
Theo nhận xét của cán bộ nghiên cứu thuộc hai đơn vị nghiên
cứu chủ lực về cây Macca ở nam Trung Quốc, ngoài đòi hỏi cao về làm đất và bón
phân như các loài cây lấy quả đang được trồng đại trà như cam, quýt, nhãn, vải
… cây Macca ít đòi hỏi chăm sóc quản lý khắt khe. Sâu bệnh hại ít nghiêm trọng,
trừ việc phải thu lượm hạt kịp thời để tránh tổn thất do chuột, sóc ăn. Hầu hết
cây lấy quả đều có đòi hỏi cao về tạo tán.
Phần lớn các loài có hoa tự đầu cành chỉ cành nào phát lộc
vào vụ hè thu mới phân hoá được chồi hoa. Việc triệt phá lộc đông và xuân phải
thực hiện triệt để kịp thời mới hy vọng ra hoa kết quả nhiều. Phần lớn nông dân
ta còn chưa đủ kinh nghiệm về kỹ thuật này.
Hoa tự Macca không phát ở đầu cành mà mọc ra từ nách lá cành
1- 2 tuổi hoàn toàn độc lập với phát lộc cành non và do đó cũng ít phụ thuộc
vào kỹ thuật tạo tán. Do đó việc tạo tán chỉ cần tập trung vào mục tiêu tối ưu
hoá hiệu quả quang hợp điều này sẽ tạo nhiều thuận lợi cho hoạt động khuyến
lâm.
Trồng Macca sẽ có nhiều lợi thế cho nông dân ở khâu sau thu
hoạch. Cách thu hoạch chủ yếu là thu lượm quả chín rụng trên mặt đất bằng máy
hoặc bằng tay. Sản phẩm thu hoạch nói chung chín đều và do đó sẽ không có vấn đề
chất lượng như trường hợp cà phê do phải tuốt cả chùm bao gồm cả quả chín và
xanh.
Sau khi chín rụng phần lớn vỏ quả đã nứt sẵn, có thể tách lấy
hạt ngay tại vườn.
Khâu thu hoạch có mấy khó khăn chính như sau:
• Phải thu nhặt hạt hàng ngày để giảm tổn thất do chuột,
sóc.
• Phải làm sạch cây bụi cỏ dại để không bị bỏ sót hạt rụng.
• Mùa thu lượm trùng với mùa thu hoạch nông nghiệp nên thiếu
nhân công.
Hiện nay đã có nhiều chất điều hoà sinh trưởng có thể sử dụng
cho quả chín rụng tập trung hơn, giảm bớt công vào rừng thu nhặt hàng ngày. Vấn
đề lớn nhất sau thu hoạch là làm khô. Quả mới rụng hàm lượng nước có thể cao tới
30% phải nhanh chóng tách quả và hong khô hạt trong bóng râm cho đến khi hàm lượng
nước rút xuống 10%. Với thuận lợi là mùa thu hoạch gặp mùa khô hanh đầu đông ở
miền bắc nước ta nên yêu cầu này dễ thực hiện. Với độ ẩm 10% hạt có thể bảo quản
tới vài ba tháng.
Các chủ trang trại ở úc và Mỹ thường bán sản phẩm với tiêu
chuẩn độ ẩm này. Trong thưong mại Quốc tế tiêu chuẩn độ ẩm là 1,5% với độ ẩm
này có thể bảo quản hạt trong nhiều năm. Để làm khô tới độ ẩm này thường phải
dùng lò sấy gần giống lò sấy thuốc lá; nhiệt độ sấy ban đầu là 32 0 C, sau bốn
năm ngày nâng dần nhiệt độ lên 52 0 C theo độ khô của hạt.
Thu hoạch Macca tại Việt Nam |
Như vậy, về những vấn đề sau thu hoạch người nông dân sẽ gặp
ít khó khăn hơn so với trồng nhãn, vải, đào, mận hay hạt giẻ…, nguy cơ bị lái
thương bắt chẹt cũng nhỏ hơn. Năng suất hạt Macca phổ biến ở úc, Hawaii , Trung
Quốc là 3,0 – 4,5 tấn/ha. Giá bán nhân, (1/3 trọng lượng hạt khô) là 12 nghìn đến
15 nghìn USD/tấn. Nếu tạm tính với năng suất 3 tấn hạt với giá 12 nghìn USD/ tấn
nhân thì chí ít người nông dân cũng thu được từ 5 nghìn – 10 nghìn USD/ ha/năm
(40 – 80% so với giá xuất khẩu).
Với mức đầu tư gần 20 triệu VND/ha, trong đó gần một nửa là
sức lao động bản thân thì thu nhập từ một vụ thu hoạch đã vượt xa mức đâù tư.
Cây Macca xứng đáng được lựa chọn làm cây xoá đói giảm nghèo. Macca vốn là cây
đại thụ thường xanh, cao 15- 20 m, tán rộng và rậm, tuổi thọ ngoài trăm năm.
Đây là cây góp phần nâng cao tỷ lệ che phủ đất đai. Nếu tạo tán theo yêu cầu lấy
quả vẫn khó làm cho cây thấp hơn 10 m và tán lá còn có thể rộng và rậm hơn.
Macca hoàn toàn phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững đối với vùng miền núi. Lá cây Macca xanh đậm và bóng, có
loài có viền răng cưa, hoa cực kỳ nhiều, hàng trăm hoa cỡ 1-2 cm mỗi bông, loài
hạt nhẵn hoa mầu trắng sữa, loài hạt nhám hoa mầu hồng phai, mùa hoa kéo dài gần
2 tháng, hương thơm ngào ngạt, nên có thể kết hợp nuôi ong. Macca cũng thể trồng
ở công viên, lâm viên, tạo phong cảnh đô thị và trang điểm cho rừng núi nước ta
tươi đẹp hơn.
III. Phân loại và giới thiệu các dòng vô tính đã được gây trồng
1. Phân loại :
Chi Macadamia có 18 loài, trong đó 10 loài nguyên sản tại
úc, 6 loài tại Tân Cri-đo-nia, 1 loài tại Ma-đa-gas-ca, 1 loài tại đảo
Xi-ri-bô. Trong 18 loài trên chỉ có 2 loài đã được gây trồng trên quy mô thương
mại là:
Macadamia integrifolia – Macca vỏ hạt láng hay Macca lá
nguyên.
Macadamia tetraphylla- Macca vỏ hạt nhám hay Macca mép lá
răng cưa.
Các loài Macca còn lại có nhân nhỏ, vị đắng, ít nhiều chứa độc
tố nên chưa được gây trồng nhiều. Nếu gộp các loài đã được gây trồng, có triển
vọng hoặc có giá trị làm cây cảnh thì có thể kể tới 5 loài sau đây :
1.1. Macadamia integrifolia Maiden – Betche. Tạm dịch là Macca
vỏ láng hoặc Macca lá nhẵn.
Phân bố tự nhiên tại vùng rừng mưa phía đông đường phân thủy
giữa nội địa úc với bờ biển đông úc, chủ yếu là trên lãnh thổ bang Quensland và
một phần bang Newsouth wales trong khoảng 25 – 28 o vĩ độ nam. Vùng phân bố tập
trung nhất là dãy núi Mepherson mà một bên là sông Nunaibah và bên kia là sông
Mary ở phía bắc trên giải rộng 24km, dài 442km.
Loài này cao tới 18m, tán rộng 15m, vỏ cành nhạt màu hơn
loài M.ternifolia (Macca 3 lá), lá non màu xanh nhạt, lá hình trứng ngược hoặc
thuôn ngược. Lá dài 10,2 – 30,5cm, rộng 2,5 – 7,6cm, có cuống lá ngắn, không có
hoặc gần như không có răng cưa, đuôi lá tròn, 3 lá hoặc 4 lá mọc xoáy ốc, nhưng
ở cây con hoặc cành non có thể gặp 1 đôi lá mọc đối. Hoa tự thường mọc ra từ
cành già, thường là mọc từ mắt lá sớm thành thục nhất ở đoạn cuối cành (phía ngọn),
Hoa tự thường dài 10,2 – 30,5cm; mỗi hoa tự có từ 100 – 300 bông hoa (Hoa màu
trắng). Quả chín rộ vào tháng 3 đến tháng 6 ở úc (mùa thu đông nam bán cầu) và
từ tháng 7 đến tháng 11 ở Hawaii. Nhưng ở California quả chín từ tháng 11 năm
trước đến tháng 3 năm sau.
Cây Macca trồng tại Tây Nguyên - Việt Nam |
Tại Quảng Châu và Bán đảo Lôi Châu quả chín từ giữa tháng 8 đến
cuối tháng 9. Ngoài ra, ở cây cao tuổi ngoài mùa hoa tập trung vẫn có thể thấy
hoa nở rải rác suốt năm. Vì vậy có thể coi loài này là “hoa quả liên tục”. Quả
hình tròn, vỏ quả không có lông nhung, màu xanh bóng. Vỏ hạt nhẵn, đường kính hạt
khoảng 1,3 – 3,2cm, nhân màu trắng sữa, có hương thơm, chất lượng rất cao. Hiện
nay các dòng vô tính được gây trồng phổ biến ở quy mô thương mại chủ yếu được
tuyển chọn từ loài này.
1.2. Macadamia tetraphylla L.A.S Johnoson, có thể gọi là Macca
4 lá, Macca hạt nhám hoặc Macca lá răng cưa, Macca lá gai.
Nguyên sản tại vùng rừng mưa nhiệt đới phía đông đường phân
thuỷ của châu úc trong khoảng 28 – 29 o vĩ tuyến nam, chủ yếu là trên dải đất
dài 120km từ bờ nam sông Coomera và sông Nerang thuộc Quensland đến bờ bắc sông
Richmont thuộc New south Wales.
Cây cao khoảng 15m nhưng tán xoè rộng tới 18m, vỏ cành nhỏ xẫm
màu hơn Macca vỏ láng, nhưng hơi nhạt màu hơn Macca 3 lá (M.ternifolia). Lá non
màu đỏ hoặc màu hồng phai, đôi khi có màu xanh nõn chuối. Lá hình thuôn ngược
dài 10,2 – 15,8cm, rộng 2,5 – 7,6cm, gần như không có cuống lá, mép lá có răng
cưa nhọn như gai, đuôi lá nhọn, 4 lá mọc cách xoáy ốc, đôi khi có 3 lá hoặc 5
lá mọc xoáy. Cây mầm cũng có 2 lá mọc đối. Hoa tự mọc ra từ cành già, nhỏ và
cũng mọc ở mắt sớm thành thục phía cuối đoạn cành. Hoa tự dài 15,2 – 20,3cm, có
từ 100 – 300 bông hoa. Hoa màu hồng phai rất tươi màu, nhưng cũng có cây cá biệt
có hoa màu trắng sữa.
Mùa quả chín rộ ở úc từ tháng 3 đến tháng 6, tại Hawaii từ
tháng 7 đến tháng 10, tại California từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, tại Quảng
Châu và Bán đảo Lôi Châu từ trung tuần tháng 8 đến cuối tháng 9. Loài này mỗi
năm chỉ ra quả 1 lần. Quả hình bầu dục, vỏ quả màu xanh xám, có phủ lớp lông
nhung dày. Hạt có vỏ nhám, đường kính hạt từ 1,2 đến 3,8cm, nhân có màu thẫm
hơn Macca vỏ nhẵn, chất lượng cũng có khác nhau giữa các dòng.
Loài này cũng có giá trị gây trồng cao, chịu rét khá hơn
loài vỏ láng, nếu dùng làm gốc ghép thì nhịp độ tăng trưởng cây khá tốt và đều,
khả năng chống chịu nấm độc hại rễ phytophthora cũng khá hơn. Do chất lượng
nhân có thể rất khác nhau, chỉ nên gây trồng những giống đã được tuyển chọn tốt.
1.3 Macadamia ternifolia F.Mueller – Macca 3 lá
Phân bố tự nhiên tại vùng đông nam đường phân thuỷ trong các
rừng mưa khoảng 26 o 00′ – 27 o 30′ vĩ độ nam trên dải đất dài 119km từ sông
Bai-in đến vùng KinKin khu vực Kin-Bi thuộc Quensland. Loài này dễ bị nhận nhầm
với nhiều loài khác và rất ít đặc điểm nhận biết dễ thấy.
Nói chung cây thường có tầm vóc nhỏ, chiều cao và độ rộng
tán thường khó vượt qua 6,5m. Tán lá thường chia nhiều cành đứng và nhiều cành
nhỏ. Vỏ cành nhỏ thường tối màu hoặc đen. Lá non màu đỏ, lá nhỏ hình thuỗn ít
khi dài hơn 15,2cm. Lá có cuống, mép lá có răng cưa nhọn, 3 lá mọc cách xoáy ốc,
nhưng mầm non cũng thường có 2 lá mọc đối. Hoa tự thường nhỏ, chỉ dài 5,1 đến
12,7cm; có từ 50 – 100 bông hoa, Hoa màu hồng phai.
Mùa quả chín tại úc là tháng 4, tại California là tháng 11.
Vỏ quả xanh xám, có lông nhung màu trắng rất dày. Vỏ hạt nhẵn bóng, cỡ hạt chừng
0,95 – 0,61cm, nhân đắng và rất khó ăn. Cho đến nay loài này chủ yếu là dùng
làm cây cảnh.
1.4 Macadamia Prealta F.Muell – Macca cầu
Quả tròn như quả cầu. Phân bố trong vùng mưa giữa Quensland
và New South wales . Quả to chừng 5cm, rất tròn, chứa 1 – 2 hạt. Vỏ hạt mỏng,
hiện chưa tìm ra giá trị thương phẩm, nhưng có thể có triển vọng trong tương
lai.
1.5 Macadamia Whelanii F.M.Bailey :
Cũng phân bố trong vùng rừng mưa giữa Quensland và New South
wales . Lá nguyên không răng cưa. Nhân sống có độc, nhưng thổ dân miền đông úc
vẫn ăn sau khi rang chín. Đến nay vẫn chưa gây trồng đến quy mô thương mại.
2. Các dòng vô tính đang được gây trồng :
Các dòng vô tính đang được gây trồng theo quy mô thương mại
đều được tuyển chọn từ 2 loài: Macca vỏ hạt láng (M. integrifolia) và Macca vỏ
hạt nhám (M. tetraphylla) và các dòng lai giữa 2 loài này. Đến nay toàn thế giới
đã tuyển chọn và đặt tên, gây trồng được trên 50 dòng trong số đó được gây trồng
phổ biến nhất là các dòng của úc và Hawaii.
2.1 Các dòng của Hawaii
Từ năm 1922, trạm thực nghiệm nông nghiệp Hawaii đã dẫn giống
và gây trồng thử cây Macca ở quy mô thương mại, nhưng do trồng bằng cây hạt nên
không đạt hiệu quả kinh tế.
Từ năm 1936, Trạm thực nghiệm nông nghiệp này bắt đầu tuyển
chọn ưu trội; từ 12.000 cá thể đã chọn và đặt tên được cho 15 cây trội và nhân
vô tính.
Đến năm 1948 đã chính thức đặt tên các dòng đầu tiên và đến
năm 1954 đã đặt thành đề tài nghiên cứu, đánh giá một cách hệ thống và khẳng định
các dòng tuyển chọn, nghiên cứu kỹ thuật phối hợp dòng nhằm tối ưu hoá hiệu quả
thụ phấn, nghiên cứu kỹ thuật gây trồng, thu hái, bảo quản, chế biến.
Năm 1956 bắt đầu phổ cập các dòng đã tuyển chọn và khuyến
khích gây trồng trên quy mô thương mại. Đến nay tất cả các trang trại gây trồng
Macca trên thế giới đều đã đi đến nhận thức chung là nhân tố quyết định thành
công của việc gây trồng Mắcca quy mô thương mại là Giống, phải dùng các dòng vô
tính đã được tuyển chọn thích hợp với lập địa của mình mới mong đạt được sản lượng
và chất lượng cao.
Nhiều nước đã bắt tay vào tuyển chọn dòng ưu trội trên các
trang trại của mình, nhưng hầu hết đều dựa trên cơ sở các dòng đã được tuyển chọn
của Hawaii và các dòng này phần lớn đều được tuyển chọn từ loài Macca vỏ hạt
láng (Macadamia integrifolia).
Tất cả các dòng do Hawaii tuyển chọn đều có phiên hiệu chung
là HAES – chữ cái đầu trong tên tiếng anh của trạm thực nghiệm nông nghiệp
Hawaii . Đây là phiên hiệu được đặt ra khi sơ tuyển, mặc dù sau khi được công
nhận và đặt tên mới, trong sản xuất và trong giao dịch quốc tế người ta vẫn gọi
theo thói quen cũ. Người biên tập cung cấp cả tên cũ và tên mới để đỡ vướng mắc
trong giao dịch sau này. Khi tuyển chọn, ngoài sản lượng hạt, các chỉ tiêu dưới
đây rất được coi trọng.
1. Tổng tỷ lệ nhân
Là tỷ lệ phần trăm của phần nhân so với
tổng trọng lượng hạt được xác định trong phòng thí nghiệm. Xét về tiềm năng, chỉ
số này có thể đạt tới 45%.
2. Tỷ lệ nhân thương phẩm
Là tỷ lệ phần trăm giữa phần
nhân so với tổng trọng lượng hạt được
bóc tách theo phương pháp chế biến đang áp dụng. Trong cả 2 chỉ tiêu trên, hàm
lượng nước tiêu chuẩn trong nhân là 1,5%.
3. Tỷ lệ nhân cấp 1
Là tỷ lệ phần trăm giữa phần nhân nổi
trên mặt nước so với tổng số nhân được đưa vào trắc định. Nhân cấp 1 có hàm lượng
dầu tới 72% trở lên. Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng nhân và cả chất lượng bảo
quản hạt. Bảo quản tốt tỷ lệ nhân cấp 1 có thể đạt tới 90 – 95%.
4. Kích cỡ nhân
Nếu mỗi nhân đạt trọng lượng 2 – 3g thì được
coi là lý tưởng.
5. Hình hài, mẫu mã
Yêu cầu kích cỡ đều, bóng, ít dập vỡ.
6. Sắc thái
Yêu cầu nhân phải có mầu trắng sữa đều nhau,
sau khi sấy khô cũng không thay đổi màu sắc. Sau khi xào qua dầu dừa phải có
màu vàng sữa đều nhau.
7. Hình thái tán cây
Nhận thức chung là hình thái tán cây
phát triển thẳng đứng sẽ cho sản lượng trên đơn vị diện tích cao. Dựa trên sản
lượng và các chỉ tiêu chất lượng nói trên, Hawaii đã đưa ra các dòng sau đây :
Keauhou – HAES 246 Kakea – HAES 508
Nuuan – HAES 336 Kohala – HAES 386
Pahou – HAES 428
Các năm sau lại đưa ra thêm các dòng sau đây :
IKaika – HAES 333 Wailua – HAES 475
Keaau – HAES 660 Kau – HAES 344
Mauka – HAES 471 Makai – HAES 800
Purvis – HAES 294 Pahala – HAES 788
Denison – HAES 790 và một số dòng lai là Beaumont – HAES 695
và NSW 44 v.v…
Các dòng sau đây đã được tuyển chọn và gây trồng rộng rãi tại
Hawaii :
1. Macca Keauhou (HAES 246)
Chọn ra vào năm 1936, đặt tên năm 1948. Tán tròn, xoè rất rộng,
chia cành rất nhiều và hơi uốn cong xuống đất, cành
tương đối nhỏ hoặc trung bình, đuôi lá ít nhọn và hơi cong
lên, mép lá lượn sóng, răng cưa (gai lá) ở mức trung bình, bản lá hay cong vặn.
Quả to, màu nâu Rốn hạt to và hơi lồi, hạt có gân rộng hơi lõm thành rãnh và nhạt
màu hơn
các phần khác của vỏ hạt. Hoa văn hình trứng tập trung nhiều
quanh vùng rốn bằng phẳng.
Tại Hawaii , trọng lượng hạt bình quân khoảng 7,2g; trong đó
phần nhân được 2,8g, tỷ lệ nhân đạt 39%, tỷ lệ nhân quả loại 1 đạt 85% (so với
hạt). Sản lượng cao, nhưng không đều nhau giữa các vùng gây trồng. Tại Hawaii
dòng này đặc biệt tốt tại đảo Kô-na, tại các đảo khác thuộc quần đảo này thì tỷ
lệ nhân cấp 1 không được ổn định.
Nhưng tại úc, dòng này được coi là đáng tin cậy, theo dõi suốt
4 vụ liền dòng này đều có sản lượng cao hơn mức bình quân của các dòng khác (sản
lượng 36,5kg nhân/cây, tỷ lệ nhân 39,2%).
Theo dõi tại Trung Quốc đã cho thấy Keauhou (246) chín muộn
hơn Hinder (dòng H 2 của úc), thời kỳ đầu sản lượng thấp nhưng từ 10 tuổi trở
đi sản lượng vừa cao vừa ổn định, nhưng chống chịu bão tương đối kém.
2. Macca Kakea (508)
Tuyển chọn năm 1936, đặt tên năm 1948. Tán lá tròn hẹp hoặc
hình tháp nhọn, vỏ cây nhạt màu hơn các dòng khác
của Hawaii, đuôi lá hơi tròn, mép lá lượn sóng, ít răng cưa
hoặc mép nguyên, có khi mép lá uốn cong. Cành cứng, khoẻ, đốt cành ngắn, lá mọc
tập trung dầy đặc ở đoạn đầu cành. Kích cỡ quả trung bình, quả tròn, rốn hạt to
vừa phải, đường gân vỏ hạt mầu nâu đỏ nhưng không lõm thành rãnh.
Tại Hawaii trọng lượng hạt bình quân đạt 7g, trọng lượng
bình quân nhân đạt 2,5g, tỷ lệ nhân 36%, tỷ lệ nhân cấp 1 trên 90%. Đây là dòng
cao sản nhất và có giá trị gây trồng thương mại tốt nhất ở quần đảo Hawaii .
Dòng này khá phù hợp với các vùng lạnh, trồng tại bán đảo Lôi Châu, Quảng Đông
sản lượng không cao và chịu bão kém.
3. Macca Ikaika (333)
Tuyển chọn năm 1936, đặt tên năm 1952. Tán lá tròn màu xanh
đậm, lá to, đôi khi có một số lá già rất to (25cm x 8cm) đuôi lá hơi vuông và
cong vặn, mép lá lượn sóng rất mạnh, nhiều gai (răng cưa sắc).
Quả màu đỏ nâu đậm và hơi có chút hoa văn, gân trên vỏ hạt
không rõ. Tại Hawaii trọng lượng hạt bình quân đạt 6,5g, trọng lượng nhân bình
quân đạt 2,2g, tỷ lệ nhân 36%, nhân cấp 1 đạt 90%. Dòng này sức sống mạnh mẽ,
chống chịu tốt, đặc biệt là chịu lạnh và chịu bão tốt.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét